Chuyển đến nội dung chính

SỰ SÁNG TẠO CỦA HỒ CHÍ MINH VỀ LỰA CHỌN PHƯƠNG PHÁP XÁC ĐỊNH BẠN, THÙ; TẬP HỢP VÀ HUY ĐỘNG LỰC LƯỢNG TOÀN DÂN TỘC VÀO SỰ NGHIỆP CÁCH MẠNG

Tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam, là kết quả của sự vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mac - Lênin vào điều kiện cụ thể của Việt Nam, kế thừa và phát triển các giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hoá nhân loại. Đó là tư tưởng về giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng con người; về độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại; về sức mạnh của nhân dân, của khối đoàn kết toàn dân tộc; về quyền làm chủ của nhân dân, xây dựng Nhà nước thực sự của dân, do dân và vì dân; về quốc phòng toàn dân, xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân; về phát triển kinh tế và văn hoá, không ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân; về đạo đức cách mạng, cần kiệm, liêm chính, chí công vô tư; về chăm lo bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau; về xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh, cán bộ đảng viên vừa là người lãnh đạo, vừa là người đầy tớ trung thành của nhân dân.
Trong di sản vô cùng quí báu của Hồ Chí Minh để lại cho toàn Đảng, toàn dân, toàn quân, bên cạnh quan điểm về đường lối chiến lược còn có cả một hệ thống các quan điểm mang tính chất phương pháp luận khoa học về tiến hành cách mạng. Hệ thống quan điểm đó vừa là sự vận dụng, phát triển phép biện chứng duy vật của Chủ nghĩa Mác-Lênin, vừa thể hiện nét riêng độc đáo, sáng tạo của Người trong quá trình cách mạng. Qua nghiên cứu phương pháp cách mạng của Hồ Chí Minh giúp ta hiểu được một cách sâu sắc hơn, toàn diện hơn về tư tưởng Hồ Chí Minh, về những quy luật vận động của cách mạng Việt Nam cùng phương pháp cách mạng của Đảng ta mà còn để vận dụng phương pháp cách mạng của Người vào viêc giải quyết những nhiệm vụ cách mạng và những vấn đề cuộc sống đặt ra trong giai đoạn hiện nay.
Và trong sự sáng tạo của Hồ Chí Minh về lựa chọn phương pháp xác định bạn – thù, tập hợp và huy động lực lượng toàn tộc vào sự nghiệp cách mạng mang một ý nghĩa hết sức to lớn, thể hiện sự sáng tạo của Người trên cơ sở kết hợp giữa lý luận và thực tiễn, góp phần quan trọng vào thắng lợi của cách mạng Việt Nam, đồng thời làm phong phú thêm hệ thống quan điểm tư tưởng của chính Chủ tịch Hồ Chí Minh.

I. Phương pháp cách mạng của Hồ Chí Minh.
1.1. Khái niệm phương pháp cách mạng:
Phương pháp cách mạng theo nghĩa hẹp là cách thức, biện pháp, quy trình hợp thành các nguyên tắc, hướng dẫn và điều chỉnh hoạt động của người cách mạng trong sự nghiệp cách mạng vì nền độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Hồ Chí Minh là một vị anh hùng của dân tộc, phương pháp hoạt động cách mạng của Người có sự ảnh hưởng sâu rộng đối với toàn bộ tiến trình cách mạng, sự thành bại của cách mạng không những ở thời điểm lịch sử lúc bấy giờ, mà cả trong giai đoạn cách mạng hiện nay.
Và cũng vì vậy, phương pháp cách mạng Hồ Chí Minh là ở cấp độ bao trùm, phổ quát nhất của phương pháp Hồ Chí Minh. Do đó, phương pháp cách mạng của Hồ Chí Minh cần phải được hiểu theo nghĩa rộng chính là sự vận động tư tưởng Hồ Chí Minh trong thực tiễn. Nói cách khác, đó là những quy luật hoạt động mà theo đó mà tư tưởng của Người được hiện thực hóa  theo nghĩa hẹp, phương pháp cách mạng Hồ Chí Minh là hệ thống các cách thức, biện pháp, quy trình hợp thành nguyên tắc điều chỉnh và hướng dẫn hành động của các lực lượng cách mạng, trong đấu tranh giành độc lập dân tộc, đi lên xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.
       Phương pháp cách mạng của Hồ Chí Minh được hình thành một cách biện chứng, khoa học. Là sự vận dụng sáng tạo quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin, sự tiếp thu tinh hoa của tư tưởng nhân loại vào thực tiễn cách mạng Việt Nam trong từng giai đoạn cách mạng cụ thể mang sắc thái hết sức riêng của Hồ Chí Minh.

1.2. Tầm quan trọng của phương pháp cách mạng.
Từ những vấn đề mang tính lý luận hết sức khái quát đã nêu trên cho chúng ta thấy rõ vai trò hết sức quan trọng của phương pháp cách mạng nói chung.
Phương pháp cách mạng cũng chính là cách thức hoạt động, những cách thức tiến hành, phương pháp tiến hành cách mạng mà chính đảng của giai cấp vô sản sử dụng để đưa đông đảo quần chúng tham gia tích cực vào các phong trào cách mạng nhằm đánh đổ chế độ cũ, xây dựng chế độ mới. Phương pháp cách mạng đúng đắn được thể hiện trước hết ở sự kết hợp hài hoà giữa tính khoa học và tính nghệ thuật trong việc tổ chức, xây dựng các lực lượng và sử dụng các hình thức đấu tranh cách mạng và cũng chính vì điều đó mà phươg pháp cách mạng mới giữ vai trò mang tính quyết định đến sự thành bại của cách mạng.
Tuy nhiên, phương pháp cách mạng trên cơ sở phải được vận dụng sáng tạo, linh hoạt vào thực tiễn. Phương pháp cách mạng thể hiện quan điểm lịch sử - cụ thể của phép biện chứng duy vật trong việc áp dụng các hình thức, phương pháp tiến hành cách mạng sát hợp với điều kiện từng nơi, từng lúc. Chính vì vậy mà Đảng ta khằng định không lĩnh vực nào lại đòi hỏi và mở ra nhiều khả nǎng phát huy trí sáng tạo như trên lĩnh vực phương pháp cách mạng; "Không bao giờ có một công thức duy nhất về cách tiến hành cách mạng" và "cách mạng là sáng tạo, không sáng tạo thì cách mạng không thể thành công".
Phương pháp cách mạng được phát huy tác dụng khi dựa trên một nền tảng hết sức vững chắc chính là quần chúng. Cách mạng là sự nghiệp của quần chúng. Phương pháp cách mạng thể hiện quan điểm trên trong thực tiễn bằng việc thường xuyên coi trọng việc giáo dục, tổ chức quần chúng thành những lực lượng cách mạng tự giác, động viên họ hǎng hái tham gia các phong trào cách mạng với những hình thức và phương pháp sát hợp. Lênin nói: "Phải biết cách đưa được đông đảo quần chúng tham gia vào những hoạt động cách mạng thực tiễn. Không những phải biết cách phân bố những lực lượng giai cấp, những đạo quân đông đảo hàng triệu người vào đúng những vị trí xác định của nó; mà còn phải biết xem xét và sử dụng đúng những lực lượng còn có tác dụng lịch sử nhất định của tất cả các giai cấp và các tầng lớp để có được một hoạt động cách mạng thật sự có tính chất quần chúng sâu rộng".
Một phương pháp cách mạng chỉ đúng và có giá trị thực tiễn khi nó giải quyết được những yêu cầu nhiệm vụ cách mạng đặt ra trong từng thời kỳ với những điều kiện lịch sử xác định, cho phép động viên được đến mức cao nhất các lực lượng cách mạng và tiến bộ tham gia, phát huy được cao nhất các tiềm nǎng cách mạng của quần chúng bằng nhiều hình thức và phương tiện thích hợp tạo thành sức mạnh tổng hợp to lớn đưa lại thắng lợi cho cách mạng. Để vận dụng phương pháp cách mạng một cách đúng đắn, từ trước đến nay Đảng ta thường xuyên chǎm lo nâng cao trình độ lý luận chủ nghĩa Mác - Lênin, nâng cao nǎng lực hiểu biết thực tiễn đất nước và tổng kết kinh nghiệm tiến hành cách mạng ở nước ta; đồng thời biết học hỏi có chọn lọc những kinh nghiệm cách mạng các nước trên thế giới.
Với ý nghĩa đó, phương pháp cách mạng là một bộ phận rất quan trọng trong tư tưởng Hồ Chí Minh, nó tác động, ảnh hưởng trực tiếp đến thắng lợi hay thành bại của cách mạng. Phương pháp cách mạng của Hồ Chí Minh là sự kế thừa những ưu việt của kinh nghiệp trên thế giới, tinh hoa nhân loại, hệ thống quan điểm khoa học, biện chứng của chủ nghĩa Mác-Leenin vào thực tiễn của chính Việt Nam, đáp ứng được yêu cầu, đòi hỏi cần thiết của cách mạng lúc bấy giờ. Phương pháp đó, thể hiện sự sáng tạo, linh hoạt, mang nhãn quan chính trị sắc bén của Người.
Hồ Chí Minh rất quan tâm, coi trọng đến phương pháp cách mạng và chính đây là nguyên nhân, động lực để Bác ra đi xem các nước trên thế giới người ta làm cách mạng như thế nào để về áp dụng vào nước mình. Con đường cách mạng, phương pháp cách mạng là những vấn đề hết sức cần thiết của một cuộc cách mạng mà các nhà cách mạng tiền bối trước đó chưa tìm ra được.
Người quan niệm tầm quan trọng của phương pháp cách mạng: “Sửa cái xã hội cũ đã mấy ngàn năm làm xã hội mới, ấy là rất khó. Nhưng biết cách làm, biết đồng tâm hiệp lực mà làm thì chắc làm được”. Đó là:
- Phải làm cho dân giác ngộ.
- Phải giảng giải lý luận và chủ nghĩa cho dân hiểu.
- Phải hiểu phong trào thế giới, phải bày sách lược cho dân.
- Phải đoàn kết toàn dân “Cách mệnh là việc chung cả dân chúng chứ không phải việc của một hai người”... “Đàn bà, trẻ con cũng giúp làm việc cách mệnh được nhiều. Dân khí mạnh thì quân lính nào, súng ống nào cũng không chống lại”.
- Phải biết tổ chức dân chúng lại, tác giả nhấn mạnh vai trò của tổ chức: cách mạng phải có tổ chức rất vững bền thì mới thành công. Tác giả đưa ra cách tổ chức quần chúng như công hội, dân cày, hợp tác xã, thanh niên, phụ nữ, quốc tế cứu tế đỏ...
- Phải giành chính quyền bằng bạo lực cách mạng của quần chúng, phải biết chọn thời cơ.

2. Những nội dung cơ bản của phương pháp cách mạng Hồ Chí Minh:
Phương pháp cách mạng Hồ Chí Minh rất đa dạng, linh hoạt, mang tính sáng tạo. Do vậy, việc phân loại các nội dung phương pháp cách mạng cũng chỉ mang tính chất tương đối. Có thể khái quát nội dung phương pháp cách mạng của Người trên một số vấn đề cụ thể sau:
Lấy thực tiễn Việt Nam làm điểm xuất phát, lấy cải tạo biến đổi hiện thực Việt Nam theo hướng hợp quy luật để thực hiện mục tiêu cách mạng.
Thêm bạn, bớt thù, tập hợp, huy động lực lượng toàn dân vào sự nghiệp cách mạng.
Dĩ bất biến, ứng vạn biến.
Nắm vững thời cơ, giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa thời - thế - lực.
Thắng từng bước và kết hợp các phương pháp trên.
Như đã nói ở trên, phương pháp cách mạng của Hồ Chí Minh là sự vận dụng linh hoạt, sáng tạo trong từng thời điểm cách mạng nhằm đạt được mục tiêu cuối cùng là giành được độc lập cho dân tộc, mang lại cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc của quần chúng nhân dân, như Người từng nói: Tôi chỉ có một ham muốn, ham muốn tột bậc là làm sao dân ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học hành.

II. Sự vận dụng sáng tạo của Hồ Chí Minh về lựa chọn phương pháp bạn – thù, tập hợp, huy động lực lượng toàn dân tộc vào sự nghiệp cách mạng.
2.1. Thêm bầu bạn, bớt kẻ thù là để đoàn kết hơn.
Hoạt động chính trị là sự tham gia của các chủ thể vào các công việc của Đảng, Nhà nước, Mặt trận và các đoàn thể nhân dân. Theo quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh, tham gia vào hoạt động chính trị là để đạt tới mục tiêu giành độc lập cho dân tộc, tự do hạnh phúc cho nhân dân và sự tiến bộ cho toàn thể nhân loại. Để thực hiện mục tiêu cao cả này, Người yêu cầu mỗi tổ chức, cá nhân tham gia vào hoạt động chính trị phải luôn đoàn kết và biết tập hợp mọi lực lượng về phe cách mạng gắn với cuộc đấu tranh kiên quyết chống lại kẻ thù là các thế lực chống đối ngăn cản con đường thực hiện mục tiêu đó. Điều này cũng có nghĩa là phải thực hiện thêm bạn, bớt thù.
Theo Hồ Chí Minh, trong sự nghiệp cách mạng cũng như trong đời sống có nhiều loại kẻ thù khác nhau cần phải được nhận diện, phân định rõ để có các biện pháp loại trừ. Xét về hành vi biểu hiện và sự nguy hiểm nói chung, Người xác định rõ đã là kẻ thù thì chúng đều là những loại “giặc”. Đó là các loại “giặc ngoại xâm”, “giặc nội xâm”, “giặc ở trong lòng”, “giặc đói”, “giặc dốt”, “giặc lụt”,… Xét về giới hạn, phạm vi hoạt động, Người phân biệt thành “kẻ thù trên thế giới, trong nước và trong mình”, “kẻ thù bên trong”, “kẻ thù bên ngoài”. Xét về vị trí, mức độ tác hại chống đối của kẻ thù để từ đó tìm ra các biện pháp loại trừ, Người phân ra các loại “kẻ thù trước mắt”, “kẻ thù lâu dài”, “kẻ thù chính”, “kẻ thù số một”, “kẻ thù nguy hiểm”… Nếu trong cách mạng giải phóng dân tộc, kẻ thù chính là chủ nghĩa thực dân, chủ nghĩa đế quốc thì trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội, kẻ thù chính lại không phải là những “tên đế quốc” như trước nữa mà đó là “chủ nghĩa cá nhân”. Nó còn được coi là “kẻ thù bên trong”, kẻ thù “ở trong lòng” ẩn nấp kín đáo không dễ gì phát hiện và nhận thấy để loại trừ. Chủ nghĩa cá nhân chính là căn nguyên đẻ ra các “chứng bệnh” hay các “kẻ địch” nằm ngay bên trong mỗi cán bộ, đảng viên và mỗi người dân. Tính nguy hiểm và sự tác hại của các “chứng bệnh” này đã được Hồ Chí Minh xác định rõ: “Mỗi chứng bệnh là một kẻ địch. Mỗi kẻ địch bên trong là bạn đồng minh của kẻ địch bên ngoài. Địch bên ngoài không đáng sợ. Địch bên trong đáng sợ hơn, vì nó phá hoại từ trong phá ra”.
Cùng với việc xác định kẻ thù, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ ra những “bầu bạn” trong quá trình đấu tranh cách mạng, xây dựng chủ nghĩa xã hội. Đó là những lực lượng, phong trào, là một quốc gia, dân tộc và cá nhân những người yêu nước, tiến bộ, yêu chuộng hoà bình với phẩm chất đạo đức trong sáng. Theo Người, muốn làm cách mạng thắng lợi thì không những phải biết phân biệt rõ ai là bạn, ai là thù, mà điều quan trọng hơn, đó là “phải thực hiện thêm bầu bạn, bớt kẻ thù”. Điều này cũng có nghĩa là ở trong nước thì phải biết tập hợp, đoàn kết mọi giai cấp, lực lượng, thành phần xã hội; biết tranh thủ lôi kéo về phe cách mạng mọi đối tượng, lực lượng có thể tranh thủ, kể cả kẻ thù. Trong chính sách đối ngoại, phải biết thu phục, tranh thủ sự đồng tình và ủng hộ của nhân dân tiến bộ, biết cô lập, phân hoá chuyển hoá kẻ thù thành bầu bạn, làm sao để trên thế giới này ngày càng bớt đi kẻ thù bên ngoài, không còn “giặc ngoại xâm”, thực hiện quan hệ hợp tác, đoàn kết hữu nghị với các nước và nhân dân thế giới theo tinh thần: “Quan sơn muôn dặm một nhà Vì trong bốn biển đều là anh em”.
Để thực hiện chủ trương thêm bạn bớt thù, trong suốt cuộc đời hoạt động cách mạng của mình, đặc biệt khi ở cương vị lãnh đạo Đảng và Nhà nước, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tiến hành chỉ đạo nhiều biện pháp cụ thể, thiết thực nhằm thực hiện chính sách đại đoàn kết, hoà hợp dân tộc, tập hợp mọi giai cấp, tầng lớp nhân dân, ngay cả đối với những người trước đó từng là kẻ thù nhưng sau đó tán thành hoà bình, thống nhất, độc lập dân tộc, dân chủ. Việc thành lập và phát triển Mặt trận Dân tộc Thống nhất Việt Nam để tập hợp đoàn kết mọi giai cấp, mọi lực lượng và toàn dân là một minh chứng rõ ràng và sinh động nhất về việc thêm bè bạn, bớt kẻ thù.

2.2. Tập hợp sức mạnh của toàn thể dân tộc cho sự nghiệp cách mạng.
Đây chính là nhân tố quyết định, quan trọng đối với tư tưởng tập hợp và huy động sức mạnh của toàn dân vào sự nghiệp cách mạng và thực tiễn đã chững minh tính đúng đắn, sáng tạo phương pháp này của Người. Theo đó, muốn tập hợp và huy động sức mạnh của toàn dân vào sự nghiệp cách mạng phải thấm nhuần tư tưởng “dâm làm gốc”.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về vai trò của quần chúng nhân dân trong lịch sử, là kết quả của sự kết hợp giữa tư tưởng lấy "dân làm gốc" ra đời trong truyền thống dựng nước, giữ nước của dân tộc và học thuyết Mác- Lênin về vai trò của quần chúng nhân dân trong đấu tranh cách mạng. Kết hợp giữa truyền thống và hiện đại, giữa lý luận và thực tiễn - Chủ tich Hồ Chí Minh đã nâng tư tưởng “Nước lấy dân làm gốc” lên một tầm cao mới vừa mang tính khoa học, vừa mang tính nhân văn sâu sắc.
Tiếp thu chủ nghĩa Mác - Lênin, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã kế thừa, sáng tạo đúng đắn về vai trò của quần chúng cho nên Người tập hợp, đoàn kết đông đảo nhân dân, phát huy được vai trò của họ trong đấu tranh giải phóng dân tộc và xây dựng chủ nghĩa xã hội trên đất nước ta.
Quan điểm cơ bản trong tư tưởng của Người về vai trò quần chúng nhân dân là: "Dân là gốc của một nước, nước lấy dân làm gốc". Đây chính là chân lý mà Người đúc kết được sau bao năm bôn ba hoạt động ở nước ngoài và tổng kết từ thực tiễn cách mạng trong nước. Bác khẳng định: “Cách mạng là sự nghiệp của quần chúng, chứ không phải là sự nghiệp của cá nhân anh hùng nào. Thành công của Đảng ta là ở nơi Đảng đã tổ chức và phát huy lực lượng cách mạng vô tận của nhân dân”. “Trong cuộc kháng chiến kiến quốc lực lượng chính là ở dân”. “Cách làm là dựa vào lực lượng của dân, tinh thần của dân, để gây hạnh phúc cho dân”. "Gốc có vững cây mới bền, Xây lầu thắng lợi trên nền nhân dân".
Từ quan điểm “cách mạng là sự nghiệp của quần chúng” Chủ tịch Hồ Chí Minh đã sớm nhận ra sức mạnh của nhân dân trong sự cấu kết với cộng đồng dân tộc, giai cấp với sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng con người. Có dân là có tất cả đã trở thành phương pháp luận trong tư tưởng của Người. “Dễ mười lần không dân cũng chịu, khó trăm lần dân liệu cũng xong”. Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Trong bầu trời không gì quý bằng nhân dân. Trong thế giới không gì mạnh bằng lực lượng đoàn kết của nhân dân”. Mỗi thắng lợi của cách mạng Việt Nam trong lịch sử dựng nước, giữ nước đều do nhân dân quyết định. Nhà quân sự lỗi lạc, đại văn hào Nguyễn Trãi đã từng nói: “Chở thuyền cũng là dân, lật thuyền cũng là dân, thuận lòng dân thì sống, nghịch lòng dân thì chết”. Đảng ta cũng khẳng định rằng cách mạng là sự nghiệp của quần chúng nhân dân và quan điểm “lấy dân làm gốc” trở thành tư tưởng thường trực để lãnh đạo đất nước hơn 80 năm qua "lực lượng của dân rất to, khả năng của dân thật phi thường". Vì thế, trong kháng chiến kiến quốc, muốn thắng lợi được kẻ thù thì phải huy động sức mạnh của toàn dân, biết phát huy tinh thần của nhân dân. Chủ tịch Hồ Chí Minh thường căn dặn Đảng ta là: "Phải gần gũi nhân dân, dựa vào lực lượng của nhân dân, xa rời dân thì tài tình mấy cũng không làm gì được". Nhưng để lực lượng dân trở thành một khối thống nhất cả trong tư tưởng và hành động thì chúng ta phải đoàn kết nhau lại, vì sự đoàn kết của nhân dân là vô địch, không một kẻ thù nào có thể chia cắt được. Thực tiễn lịch sử Việt Nam ta mấy nghìn năm dựng nước và giữ nước đã chứng tỏ điều đó. Sự nghiệp vẻ vang của Hai Bà Trưng, Bà Triệu, Lý Thường Kiệt, Trần Hưng Đạo, Lê Lợi, Quang Trung, v.v. chính cũng là sự nghiệp của quần chúng nhân dân. Tuy nhiên dưới chế độ phong kiến, vai trò của quần chúng bị lu mờ, và chính bản thân quần chúng cũng không nhận thức được sức mạnh của mình. Các triều đại liên tiếp đổi thay, chính quần chúng là người quyết định sự biến đổi ấy, từ thực tiễn đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: "Dân trí mạnh thì quân lính nào, súng ống nào cũng không chống nổi", "Sự đồng tâm của đồng bào đúc thành một bức tường đồng xung quanh Tổ quốc. Dù địch hung tàn xảo quyệt đến mức nào, đụng đầu nhằm bức tường đó, chúng cũng phải thất bại".
Đoàn kết là sức mạnh, đó là nguyên nhân của mọi thành công, mọi thắng lợi trong sự nghiệp cách mạng giải phóng dân tộc, trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. “Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết; Thành công, thành công, đại thành công”. Sự đoàn kết càng mở rộng thì sự thành công càng chắc chắn, cho nên trong quá trình lãnh đạo cách mạng Bác luôn coi trọng sự đoàn kết nhân dân, xem đó là vấn đề có ý nghĩa chiến lược. Và đó cũng là lý do để Người quyết định thành lập Mặt trận dân tộc thống nhất đoàn kết xã hội thành một khối thống nhất chống ngoại xâm.
Với quan điểm “Cách mạng là sự nghiệp của dân, do dân và vì dân” là một tư duy hoàn toàn mới trong lịch sử tư tưởng Việt Nam. Đó chính là sự vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào thực tiễn cách mạng nước ta. Quan điểm này đã trở thành cơ sở lý luận cho mọi hoạt động của tổ chức và cá nhân trong xã hội nhằm phát huy vai trò sáng tạo, tích cực của quần chúng. Xuất phát từ đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn xem mình là người phục vụ quần chúng, chịu trách nhiệm trước quần chúng. Người nghiêm khắc phê phán những biểu hiện của tệ quan liêu, xa dân, khinh dân, đặc biệt là thói kiêu ngạo “quan cách mạng”, ra lệnh, ra oai, “không tin dân” để dẫn đến chỗ “dân không tin” làm hại đến uy tín của Đảng, của Chính phủ. Trong điện gửi các cán bộ chính quyền và đoàn thể miền Nam Trung Bộ năm 1950, Người phê bình: “...Máy móc, ép buộc đồng bào, nhiều việc quá trình độ, dân không hiểu, không thích. Đã thấy sai lầm mà không kịp thời sửa chữa, kịp thời báo cáo. Dùng thói quan liêu, chỉ biết ra lệnh, ép buộc dân chúng đóng góp”.
Khẳng định vai trò của quần chúng nhân dân, Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng, Đảng, Nhà nước và mỗi cán bộ, đảng viên có trách nhiệm giác ngộ, tập hợp, đoàn kết nhân dân lại rồi dẫn đường cho họ đi vào hoạt động cách mạng, nhằm đem lại lợi ích thiết thực cho dân. Người khẳng định: “Đảng ta là một đảng cầm quyền...phải xứng đáng là người đầy tớ thật trung thành của nhân dân”, theo Người ngoài lợi ích của giai cấp công nhân và nhân dân lao động Đảng ta không còn lợi ích nào khác. Mục đích của Đảng là phục vụ giai cấp, phục vụ nhân dân, để phục vụ tốt mục đích trên thì Đảng phải là người đầy tớ thật trung thành của nhân dân. Mọi cơ quan, tổ chức của Đảng, Nhà nước đều là công bọc của nhân dân. Người viết: “Nước ta là Nhà nước dân chủ, địa vị cao nhất là dân, vì dân là chủ, trong bộ máy cách mạng từ người quét nhà, nấu ăn cho đến Chủ tịch nước đều phân công làm đầy tớ cho dân”.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đặt niềm tin tuyệt đối vào nhân dân, ngay cả khi cách mạng đang ở trong tình thế “ngàn cân treo sợi tóc” Người vẫn một lòng tin tưởng vào nhân dân. Người cho rằng “có dân sẽ có tất cả”, “có dân việc gì cũng làm được” và Người thường xuyên động viên nhắc nhở: “chúng ta phải ghi tạc vào đầu cái chân lý này: dân rất tốt. Lúc họ đã hiểu thì việc khó khăn mấy họ cũng làm được, hy sinh mấy họ cũng không sợ”.
Đối với Chủ tịch Hồ Chí Minh, Người không chỉ tin tưởng vào sức mạnh phi thường của nhân dân mà còn tin tưởng vào cả tấm lòng yêu nước, ý chí, quyết tâm, lòng dũng cảm và sự trung thành tuyệt đối vào Đảng của nhân dân. Người khẳng định: “nhân dân ta rất anh dũng, dũng cảm, hăng hái cần cù. Từ ngày có Đảng nhân dân ta luôn đi theo Đảng, rất trung thành với Đảng...Dù khó khăn mấy nhân dân ta nhất định thắng lợi…” Vì thế, Bác rất tôn trọng người lao động, theo Bác, tôn trọng người lao động là phải gần gũi nhân dân, hòa cùng nhân dân, không được tự tách ra khỏi dân, không được đặt mình cao hơn dân. Người dạy cán bộ, đảng viên “Từ nơi quần chúng ra, trở lại nơi quần chúng. Có gần gũi, hòa cùng nhân dân thì mới hiểu được dân, đồng cảm với dân, nắm được tâm tư tình cảm của dân... Hòa cùng nhân dân còn để giác ngộ, lãnh đạo nhân dân thúc đây xã hội phát triển theo chiều hướng có lợi cho nhân dân”.
Đánh giá đúng vai trò của quần chúng nhân dân vừa là mục tiêu, vừa là động lực, vừa là bí quyết thắng lợi của mọi chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước ta. Chủ nghĩa xã hội là nhằm nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân và do nhân dân xây dựng. Nghĩa là phải phát huy tinh thần làm chủ, sáng tạo của dân; nhân dân phải được tham gia một cách trực tiếp vào công việc quản lý, sản xuất và đời sống của mình; phải tôn trọng, lắng nghe ý kiến của dân thông qua hệ thống chính trị ở cơ sở. Người luôn nhắc nhở “Các cơ quan của Chính phủ từ toàn quốc cho đến các làng đều là công bộc của dân, nghĩa là gánh vác việc chung cho dân, chứ không phải đè đầu dân...”. “Việc gì lợi cho dân ta phải hết sức làm. Việc gì có hại đến dân, ta phải hết sức tránh”.
Tư tưởng “Nước lấy dân làm gốc” của Chủ tịch Hồ Chí Minh là tư tưởng vì nhân dân, vì con người. Dựa vào dân, tin vào lực lượng, trí tuệ của nhân dân, chăm lo cho cuộc sống vật chất, tinh thần của nhân dân là tạo nên sức mạnh đoàn kết và mối quan hệ mật thiết giữa Đảng với nhân dân. Đó chính là nền tảng của công cuộc đổi mới và phát triển mà Đảng Cộng sản Việt Nam đã và đang lãnh đạo nhân dân thực hiện.
Để thực hiện quan điểm đó, chủ tịch Hồ Chí Minh trên thực tiễn đã thường xuyên quan tâm sâu sắc đến việc huy động sức mạnh toàn dân vào sự nghiệp cách mạng.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã sớm nhận thấy sức mạnh cứu nước phải là sức mạnh của toàn dân, sức mạnh của cả dân tộc. Dưới sự chỉ đạo sáng suốt và tầm nhìn xa, Đảng ta đã đưa ra ba quyết định có ý nghĩa lịch sử. Một là, quyết định chuẩn bị khởi nghĩa vũ trang và kêu gọi cả nước đứng lên tổng khởi nghĩa, đưa Cách mạng Tháng Tám đến thành công, lập ra nước Việt Nam dân chủ cộng hoà. Hai là, quyết định kêu gọi cả nước đứng lên kháng chiến chống Pháp, đưa cuộc kháng chiến trường kỳ chống đế quốc Pháp đến thắng lợi, giải phóng một nửa đất nước, đưa miền Bắc tiến lên chủ nghĩa xã hội. Ba là, quyết định kêu gọi cả nước đứng lên kháng chiến chống Mỹ, đưa cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước đến thắng lợi hoàn toàn, giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước.
Muốn đánh thắng những kẻ địch hung bạo, mạnh hơn ta gấp bội về kinh tế, quân sự, khoa học và công nghệ, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta chủ trương phải tiến hành chiến tranh toàn diện, trong đó mỗi người dân Việt Nam, bất kỳ già trẻ, gái trai, bất kỳ giàu nghèo, lớn nhỏ đều phải trở thành chiến sĩ đấu tranh trên mặt trận quân sự, kinh tế, chính trị, văn hoá. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ quy luật tất yếu: bảo vệ đất nước luôn luôn gắn liền với xây dựng đất nước, động viên toàn dân kháng chiến luôn luôn đi đôi với bồi bổ sức dân. Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta chủ trường thực hiện kháng chiến toàn diện bằng sự kết hợp đấu tranh quân sự với đấu tranh chính trị, đấu tranh ngoại giao, lấy đấu tranh quân sự là chủ chốt, là trực tiếp quyết định.
Để phát huy sức mạnh của toàn dân, Người còn chủ trương gắn chặt tiến tuyến với hậu phương. Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã sớm xác định rõ mối quan hệ biện chứng giữa tiền tuyến với hậu phương. Trong khi nêu khẩu hiệu “Tất cả cho tiền tuyến, tất cả để chiến thắng”, Đảng ta đồng thời đã đề ra nhiệm vụ xây dựng hậu phương vững mạnh về mọi mặt. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã phát động phong trào thi đua ái quốc. Trong những năm kháng chiến chống Pháp, Đảng ta và Bác Hồ đã phát động quần chúng thực hiện giảm tô và cải cách ruộng đất, xây dựng và củng cố hậu phương, tạo nên khí thế mới và sức mạnh mới, góp phần quan trọng đưa cuộc kháng chiến đến thắng lợi vĩ đại trên mặt trận Điện Biên Phủ.
Bước sang giai đoạn kháng chiến chống Mỹ cứu nước, miền Bắc xã hội chủ nghĩa đã trở thành hậu phương lớn của tiền tuyến lớn miền Nam, trở thành căn cứ địa cho cả nước, đóng vai trò quyết định trong sự nghiệp giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc. Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn chăm lo xây dựng miền Bắc, coi miền Bắc là cái nền, cái gốc của cuộc đấu tranh hoàn thành giải phóng dân tộc, thực hiện thống nhất nước nhà. Bác chỉ rõ, mọi việc chúng ta làm ở miền Bắc đều nhằm tăng cường lực lượng của miền Bắc vào miền Nam. Bác xác định rõ mối quan hệ biện chứng giữa công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và sự nghiệp giải phóng miền Nam, hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân trong cả nước.
Quá trình lịch sử trên 30 năm kháng chiến chứng tỏ rằng, chiến tranh ngày càng mở rộng, quy mô ngày càng lớn, mức độ ác liệt ngày càng tăng, thì vai trò của hậu phương ngày càng to lớn. Rõ ràng, hậu phương vững mạnh về mọi mặt là nhân tố thường xuyên quyết định thắng lợi trong chiến tranh.
Nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về phương pháp cách mạng nói chung, phương pháp thêm bạn – bớt thù, tập hợp và huy động lực lượng toàn dân vào sự nghiệp cách mạng không những có ý nghĩa lịch sử góp phần đưa cách mạng Việt Nam đến thắng lợi, mà hiện nay tư tưởng ấy của Người vẫn còn giữ nguyên giá trị. Đảng ta trong quá trình đổi mới hiện nay, với sự biến đổi mau lẹ, phức tạp của tình hình, vấn đề đối tượng, đối tác, vấn đề tập hợp sức mạnh của toàn dân, xây dựng thế trận lòng dân, tạo sự đồng thuận của toàn dân nhằm thực hiện mục tiêu cách mạng, đẩy nhanh công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội./.


Nhận xét

Bài đăng phổ biến từ blog này

Bài phát biểu chỉ đạo Đại hội điểm của Đoàn Thanh niên

BÀI PHÁT BIỂU CHỈ ĐẠO ĐẠI HỘI ĐẠI BIỂU ĐOÀN TNCS HỒ CHÍ MINH XÃ LỊCH HỘI THƯỢNG -------------- Kính thưa: Đoàn quý đại biểu , thưa toàn thể Đại hội . Hôm nay, tôi rất vui mừng về dự Đại hội Đại biểu Đoàn TNCS Hồ Chí Minh xã Lịch Hội Thượng nhiệm kỳ 2017 - 2022. Thay mặt Ban BTV Huyện Đoàn, tôi xin gửi đến các đồng chí lãnh đạo, quý đại biểu cùng toàn thể đại hội lời chúc mạnh khỏe, thành công và lời chào mừng tốt đẹp nhất. Kính thưa Đại hội ! Đại hội Đại biểu Đoàn TNCS Hồ Chí Minh xã Lịch Hội Thượng nhiệm kỳ 2017 – 2022 là đợt sinh hoạt chính trị sâu rộng và có ý nghĩa hết sức quan trọng đối với tổ chức Đoàn, đoàn viên, thanh niên . Qua công tác chỉ đạo và theo dõi, chúng tôi đánh giá cao sự cố gắng của các đồng chí trong Ban Chấp hành; các đồng chí đã bám sát các văn bản hướng dẫn và sự chỉ đạo của cấp trên, làm tốt công tác chuẩn bị về mọi mặt, đảm bảo Đại hội diễn ra đúng theo kế hoạch. Qua nghe Báo cáo kết quả thực hiện nghị quyết Đại hội đại biểu nhiệm kỳ 201...

LUẬN BÀN VỀ TAM CƯƠNG NGŨ THƯỜNG, TAM TÒNG TỨ ĐỨC CỦA KHỔNG TỬ

Nho giáo, còn được gọi là Khổng giáo, là một hệ thống đạo đức, triết lý và tôn giáo do Khổng Tử phát triển để xây dựng một xã hội thịnh trị theo ý muốn của ông. Nho giáo phát triển chủ yếu ở các nước Châu á. Khổng tử đặt ra một loạt tam cương (tam cang), ngũ thường, tam tòng, tứ đức... để làm chuẩn mực cho mọi sinh hoạt chính trị và an sinh xã hội. Tam cương  và  ngũ thường  là lẽ đạo đức mà nam giới phải theo.  Tam tòng  và  Tứ đức  là lẽ đạo đức mà nữ giới phải theo. Khổng Tử cho rằng người trong xã hội giữ được  tam cương, ngũ thường, tam tòng, tứ đức  thì xã hội được an bình. A.  Tam cương :  tam  là ba,  cương ( cang) là giềng mối. Tam cương là ba mối quan hệ: quân thần (vua tôi), phụ tử (cha con), phu thê (chồng vợ). Trong xã hội phong kiến, những mối quan hệ này được các vua chúa lập ra trên những nguyên tắc “chết người”. 1. Quân thần: ("Quân xử thần ...

Bài phát biểu Họp mặt cán bộ đoàn

BÀI PHÁT BIỂU HỌP MẶT Hôm nay, trong không khí ấm áp đầy nghĩa tình của buổi Họp mặt với sự hiện diện của các đồng chí nguyên là cán bộ Đoàn qua các thời kỳ, các đồng chí đoàn viên của chi đoàn khối Đảng, đoàn thể. Lời đầu tiên, thay mặt Ban Thường vụ Huyện Đoàn tôi xin chân thành gửi đến các đồng chí lời chúc sức khỏe, hạnh phúc và lời chào mừng nồng nhiệt nhất. Kính thưa các đồng chí! Trãi qua 84 năm xây dựng và trưởng thành, tổ chức Đoàn TNCS Hồ Chí Minh đã không ngừng lớn mạnh cả về chất lượng và số lượng. T rong mỗi giai đoạn lịch sử, Đoàn TNCS Hồ Chí Minh luôn đề ra những chương trình hành động cách mạng rất thiết thực; trong bất cứ thời kỳ nào cũng không thiếu những tấm gương thanh niên dũng cảm quên mình trong chiến đấu, sáng tạo trong học tập, lao động sản xuất góp phần xây dựng quê hương, đất nước ngày càng tươi đẹp, giàu mạnh hơn như Chủ tịch Hồ Chí Minh hằng mong ước. Kế thừa và phát huy truyền thống vẻ vang của các thế hệ cha anh đi trước, tuổi trẻ củ...